Trình Bày: Ngô Thị Quý Linh
NGUYÊN ÂM, PHỤ ÂM - CÁCH PHÁT ÂM 29 MẪU TỰ, NHẬN CHỮ, NHẬN ÂM, ĐÁNH VẦN
I. Các chữ cái
Chữ in hoa
A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K
L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư
V X Y
Chữ in thường
a ă â b c d đ e ê g h i k
l m n o ô ơ p q r s t u ư
v x y
*10 nguyên âm: đó là những chữ cái đọc lên tự nó có thanh âm: a, e, i, o, u, y, và các biến thể ê, ô, ơ, ư. Tên chữ và âm chữ đọc giống nhau.
2 bán nguyên âm: ă, â. Hai chữ này không đứng riêng một mình được, phải ghép với một trong các phụ âm c, m, n, p, t.
Vần ghép từ nguyên âm: ai, ao, au, ay, âu, ây, eo, êu, ia, iu, oa, oe, oi, ôi, ơi, ua, ưa, uê, ui, uy, ưi, iêu, yêu, oao, oai, oay, uôi, ươi, ươu, uya, uyu…
Vần ghép từ một hay hai nguyên âm hợp với một hay hai phụ âm: ac, ăc, âc, am, ăm, âm, an, ăn, ân, ap, ăp, âp, at, ăp, ât, em, êm, en, ên, ep, êp, et, êt, …, inh, iêng, uông, …
*Phụ âm là những chữ tự nó không có âm, ghép vào nguyên âm mới có âm được.
15 phụ âm đơn: b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, r, s, t, v, x.
2 phụ âm không đứng một mình được: p và q. Chúng ta chỉ có chữ bắt đầu bằng ph và qu, không có chữ bắt đầu bằng p hay q đứng một mình trong tiếng Việt. Ví dụ: quà, phở, quê, cà phê.
Ghi chú: Chữ “p” có thể dùng để phiên âm hay ký âm những danh từ riêng hay danh từ chung của dân sắc tộc thiểu số hay người ngoại quốc. Ví dụ: pin (từ chữ “pile” tiếng Pháp).
11 phụ âm ghép: ch, gh, gi, kh, ng, ngh, nh, ph, qu, th, tr.
II. Cách phát âm.
Chữ viết Tên chữ Phát âm
A a a
Ă ă á
 â ớ
B bê bờ
C xê cờ
D dê dờ
Đ đê đờ
E e e
Ê ê ê
G giê gờ
H hát hờ
I i i
K ca cờ
L el-lờ lờ
M em-mờ mờ
N en-nờ nờ
O o o
Ô ô ô
Ơ ơ ơ
P pê pờ
Q cu/quy cờ
R e-rờ rờ
S ét-sì sờ
T tê tờ
U u u
Ư ư ư
V vê vờ
X ích-xì xờ
Y i- gờ-rếch i
III. Đánh vần
- Chữ “c” đi với các nguyên âm: a, o, u và các biến thể nguyên âm: ă, â, ô, ơ, ư.
- Chữ “k” đi với các nguyên âm: e, i, y và biến thể nguyên âm: ê.
- Chữ “g” đi với các nguyên âm: a, o, u và biến thể nguyên âm: ă, â, ô, ơ, ư.
- Chữ “gh” đi với các nguyên âm: e, i và biến thể nguyên âm: ê.
- Chữ “ng” đi với các nguyên âm: a, o, u và các biến thể: ă, â, ô, ơ, ư.
- Chữ “ngh” đi với các nguyên âm: e, i và biến thể: ê.
Ví dụ: gi + iếng = giếng
Âm là tiếng phát ra của một chữ: a, o, u, …
Thanh là giọng lên xuống làm cho âm đó biến ra tiếng khác: á, ò, ũ, …
Một âm có thể biến đổi do sáu thanh:
Trong sáu thanh ấy, một thanh không có dấu giọng và năm thanh có dấu giọng.
Dấu giọng - Năm dấu giọng này rất quan trọng đối với tiếng Việt. Nếu dấu giọng bị bỏ sót hay sai dấu thì nghĩa của chữ bị thay đổi.
Năm dấu giọng là:
Tiếng nào viết không có dấu giọng thì giọng tự nhiên bằng phẳng.
Những tiếng không có dấu giọng hay có dấu huyền thuộc về âm bằng.
Những tiếng có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã và dấu nặng thuộc về âm trắc.
Một tiếng đầy đủ có 3 thành phần: âm đầu - vần - thanh, luôn luôn phải có: vần - thanh, có tiếng không có âm đầu.
Ví dụ 1. Tiếng on có vần “on” và đoản bình thanh (không dấu), không có âm đầu. Đánh vần: o - nờ - on.
Ví dụ 2. Tiếng òn có vần “on” và tràng bình thanh (dấu huyền), không có âm đầu. Đánh vần: o - nờ - on - huyền - òn.
Ví dụ 3. Tiếng còn có âm đầu là “c”, có vần “on” và tràng bình thanh (dấu huyền). Đánh vần: cờ - on - con - huyền - còn.
Ví dụ 4. Tiếng ngọn có âm đầu là “ng”, có vần “on” và hạ thanh (dấu nặng). Đánh vần: ngờ - on - ngon - nặng - ngọn.
Ví dụ 1. Tiếng Nguyễn có phụ âm đầu là “ng”, có vần “uyên” và khứ thanh (dấu ngã). Vần “uyên” có âm đệm là “u”, âm chính là “yê”, âm cuối là “n”. Đánh vần “uyên” là: u - i - ê - nờ - uyên hoặc u - yê - nờ - uyên. Đánh vần “Nguyễn” là: ngờ - uyên - nguyên - ngã - nguyễn.
Ví dụ 2. Tiếng ảnh, không có phụ âm đầu, có vần “anh” và hồi thanh (dấu hỏi). Vần “anh” có âm chính “a”, âm cuối là “nh”. Đánh vần: anh - hỏi - ảnh.
Ví dụ 3. Tiếng nóng có phụ âm đầu là “n”, vần là “ong” và thượng thanh (dấu sắc). Đánh vần “ong”: o - ngờ - ong. Đánh vần tiếng “nóng”: nờ - ong - nong - sắc - nóng.
Ví dụ 4. Tiếng nghiêng có phụ âm đầu là “ngh”, có vần “iêng” và đoản bình thanh (không dấu). Vần “iêng” có âm chính “iê” và phụ âm cuối là “ng”. Đánh vần tiếng nghiêng: ngờ - iêng - nghiêng. Đây là tiếng có nhiều chữ cái nhất của tiếng Việt.
Ví dụ 5. Với từ có 2 tiếng Con cò, ta đánh vần từng tiếng: cờ - on - con - cờ - o - co - huyền - cò.
Trước năm 1935, các phụ âm gọi theo tên chữ, ví dụ: “b” là “bê”, “l” là “en-lờ”, “ngh” là “en-nờ-dê-hát”. Từ năm 1935 trở đi, có quy định mới cho chương trình học từ lớp đồng-ấu như sau:
“Học quốc-ngữ, cấm không được đánh vần theo lối cũ, nghĩa là không được gọi tên chữ mà phải gọi âm chữ”.
Do đó, “b” đọc là “bơ”, “l” đọc là “lơ”, “t” đọc là “tơ”, “ngh” đọc là “ngơ”, …
Người Việt từ xưa quen học chữ nho là một thứ chữ tượng hình, cho nên khi học tiếng Việt, các sách dạy vần ngày trước đều bắt đầu dạy bằng những chữ có nét giản dị, gạch một nét, hai nét, đường thẳng, đường tròn, rồi từ từ mới đến các chữ phức tạp khác.
Ví dụ: khi bắt đầu thì học chữ i, chữ u, chữ ư, chữ o, chữ e, chữ t, chữ l.
Sau đó, đến một giai đoạn, có thể là trong khoảng 1945 đến 1956, vì lý do chính trị, thay đổi chính phủ và nền hành chánh, từ một nước thuộc địa của Pháp thành ra một quốc gia độc lập, cho nên cách dạy đánh vần tiếng Việt đã trở lại như trước, không theo cách dạy thời thuộc Pháp (sách Quốc-văn Giáo-khoa Thư). Cách đọc các phụ âm khi đánh vần là “bê”, “xê”, “dê”.
Năm 1956, sau khi nền Đệ-nhất Cộng-hòa được thành lập, nghị định và định chế về ngôn ngữ của Bộ Quốc-gia Giáo-dục miền Nam Việt-Nam thay đổi cách đọc các phụ âm cho phù hợp với cách phát âm của âm vị.
Ví dụ: “b” phát âm là “bờ”, “c” phát âm là “cờ”.
Học sinh ghép vần trước, sau đó ghép phụ âm đầu vào với vần và thanh.
Các nhà ngôn ngữ học cho là theo cách này dễ ghép âm hơn là cách đánh vần theo kiểu cũ.
Ví dụ:
Trong tiếng Việt cũng như mọi ngôn ngữ, mỗi một tiếng có một nghĩa khác nhau, đọc và viết khác nhau. Tuy nhiên, có nhiều tiếng đọc hơi giống nhau và cách viết khác đi. Do đó, chúng ta cần phải biết đọc và viết cho đúng để khỏi nhầm lẫn chữ nọ với chữ kia.
Theo học giả Lê Ngọc Trụ thì “Vấn-đề chánh-tả Việt-ngữ là vấn-đề tự-nguyên-học. Muốn viết trúng một tiếng, ngoài cách phát-âm đúng, phải biết nghĩa-lý hoặc nguồn-gốc của tiếng đó.” Muốn viết đúng chính tả, ông nói nên chú ý ba điểm sau:
Tiếng Việt cũng có hệ thống mạch lạc và hợp lý, có nguyên tắc cốt yếu là “luật tương-đồng đối-xứng của các âm-thể”, có nghĩa là “các âm-thể đồng tánh-cách phát-âm và đồng chỗ phát-âm đi chung nhau và đổi lẫn cho nhau.” Nếu hiểu được nguyên tắc này và hiểu được nguồn gốc tiếng Việt thì ta sẽ hiểu được nghĩa lý của mỗi tiếng, từ đó việc thống nhất chính tả và điển chế văn tự sẽ dễ dàng hơn.
Tham khảo:
NGÔ THỊ QUÝ LINH
Tháng Bảy Năm 2019
____________________________________________________________
Nhà giáo Ngô Thị Quý Linh
* Đã xuất bản một số sách soạn cho thanh thiếu niên từ năm 1990.* Tác giả một số tác phẩm về lịch sử và văn hóa Việt Nam:
- Sử Xanh Lưu Truyền (1991) - Lời Mẹ Hiền qua tục ngữ ca dao (1993) - Lược sử Triết lý Giáo dục Việt Nam (1997) - Lịch sử Việt Nam từ thuộc Pháp đến Độc Lập, 1858-1945 (2002) - Việt Nam và Công cuộc Duy Tân (2019)
* Cố vấn cho Viện Bảo Tàng Thiếu Nhi tại Houston (Children’s Museum of Houston) năm 2004 để thực hiện triển lãm “Con Rồng Cháu Tiên”.
* Thành lập Trường Truyền Thống Việt từ năm 2006.
* Phụ trách chương trình Văn Hóa Việt trên đài Saigon Houston từ năm 2007.
* Cộng tác từ năm 2014 với Nhóm Thực Hiện Từ Điển Việt Nam tại Hải Ngoại do Giáo sư Nguyễn Song Thuận chủ trương.
Link nội dung: https://diendanxaydung.net.vn/chu-gi-doc-la-gi-a60385.html